Vấn Đề Nữ Linh Mục
Vào
năm 2002, có bảy nữ nhân được phong chức
linh mục Công Giáo ở Austria. Từ đó đến nay
đă có khoảng 100 nữ nhân trên thế giới tuyên
bố ḿnh là linh mục Công Giáo, trong số đó
80 bà là người Mỹ (Time, no. 13, Sept. 27,
2010). Tin nổi bật hơn cả, trong tháng Năm
vừa qua, cô Longhitano đến Rome để nhận chức
linh mục. Một giám mục Anh Giáo phong chức
cho cô. Nghi lễ quy tụ gần 300 người tham dự.
Longhitano tuyên bố, cô chọn Rome v́ đó là
kinh đô Công Giáo. Cô muốn Giáo Hoàng nghe
và thấy những ǵ đang xảy ra (New York Time,
Sept. 23, 2010). Nhóm ủng hộ phong trào nữ
linh mục cho biết cứ đà này, họ sẽ có nữ
giám mục Công Giáo. Từ đó họ sẽ tự quyền
phong chức linh mục cho nữ nhân mà không cần
nhờ giám mục của những giáo phái khác. Hiện
tại, mỗi Chủ Nhật, nữ linh mục cử hành thánh
lễ tại tư gia hay tại một nhà thờ Tin Lành
thuê mướn nào đó.
Ngay sau biến cố
Longhitano, ngày 15 tháng Bảy, 2010 Ṭa Thánh Vatican
chính thức đưa ra bản kết án những bà tự nhận là linh
mục là họ đă phạm tội trọng (delictum gravius) và bị rút
phép thông công. Linh mục Federico Lombardi, phát ngôn
viên Ṭa thánh Vatican phân tích rằng, phong chức linh
mục cho phụ nữ là mắc tội nghịch với các bí tích (a
crime against sacraments), tức là những bí tích do chính
Chúa Giêsu thành lập để ban ân sủng.
Riêng trong nội bộ
Anh Giáo, mặc dù họ đă bắt đầu truyền chức linh mục cho
nữ giới từ năm 1992, nhưng việc đó chưa được nhất trí.
Đă có khoảng 100 linh mục và 3 giám mục phản đối. Các vị
này đang tiếp xúc với Ṭa Thánh Rôma để xin trở thành
tín đồ Công Giáo Rôma. Khi họ chuyển đạo, họ sẽ kéo theo
nhiều con chiên theo họ. Ngoài ra một số các vị phản đối
khác tuy vẫn trung thành với Anh giáo nhưng đă lên tiếng
cảnh cáo rằng, nếu việc phong chức cho nữ linh mục không
được xét lại, họ có thể tạo ra cuộc ly khai (Telegraph,
July, 2010).
Ba Điểm
Chính Của Thần Học Linh Mục Phụ
Nữ
Phong trào nữ linh
mục bắt nguồn từ Âu Châu trong năm 2002 với một số nhà
nữ thần học Đức, trong số đó có vài vị nữ tu và linh mục
John Wijngaard, giáo sư thần học. Riêng tại nước Mỹ,
phong trào này được kích động thêm khi có cuộc khủng
hoảng về lạm dụng t́nh dục của các tu sĩ nam và hiện
trạng thiếu hụt trầm trọng các linh mục. Tháng năm vừa
qua hai cơ quan truyền thông New York Time và CBS đă làm
cuộc thăm ḍ tổng quát. Ho cho biết 59% giáo dân Mỹ chấp
nhận ư kiến nữ linh mục.
Có ba điểm chính
trong hệ thống tư tưởng nữ linh mục. Điểm thứ nhất là vị
thế của Mẹ Maria, của Thánh Martha, và Thánh Mađalêna
trong giáo hội sơ khai. Qua sự liên hệ mật thiết giữa
Đức Giêsu và các thánh nữ ấy họ biện luận rằng Mẹ Maria
và Thánh Mađalena là Tông Đồ, là linh mục, và là giám
mục của Giáo Hội sơ khai. Qua đó họ cho rằng nữ linh mục
có nguồn gốc tông truyền từ Chúa Giêsu.
Điểm thứ hai, nhóm
nữ linh mục cho rằng Vatican đă kỳ thị phái tính. Họ cho
rằng hệ thống quyền hành hiện tại có tính cách bảo vệ
nam giới đàn áp nữ giới. Một dạng áp chế bất công lỗi
thời của những thế kỷ cũ kỹ. Họ trưng dẫn những đoạn
kinh thánh để chứng minh sự kỳ thị phụ nữ. Chẳng hạn khi
thánh Phaolô nói, "Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy"
(1Tim 2:11-15) hay "Phụ nữ phải làm thinh trong các buổi
họp" (1Cor 14:34-35).
Điểm thứ ba, những
người phản kháng vin vào câu nói của Đức Giêsu
"không
được gọi một phàm nhân nào là cha". Cha là danh xưng
dành riêng để gọi Thiên Chúa. Như vậy danh xưng cha (một
dấu chỉ nam giới) dùng để chỉ linh mục đă phạm luật cho
chính Đức Giêsu đặt ra. Giáo lư "chỉ nam nhân mới có thể
là linh mục" không có nền tảng Phúc Âm nhưng đầy sắc
thái kỳ thị phái tính.
Phụ
Nữ Không Thể Là Linh Mục
Thần học có ba
điểm để giải thích vấn để linh mục là người nam. Thứ
nhất, nam và nữ b́nh đẳng nhưng có ơn gọi khác nhau.
Thiên Chúa tạo ra nữ nhân là mẹ và nam nhân là cha.
Không chức vụ nào có giá trị hơn hay kém hơn. Cả hai đều
rất quan trọng và bổ túc cho nhau.
Thứ hai, chức linh
mục là một bí tích. Chẳng có người nam hay người nữ nào
xứng đáng được làm linh mục. Sở dĩ người nam được thụ
phong chức linh mục v́ Chúa Giêsu ban cho như vậy. Giá
trị của người được lănh chức linh mục cũng không phải v́
cá nhân đó tài giỏi hay xứng đáng ở một điểm nào đó,
nhưng chỉ v́ cá nhân đó được thông phần thiên chức linh
mục của Chúa Giêsu.
Thứ ba, theo mô
thức gia đ́nh, Giáo Hội là mẹ và linh mục là cha. Có rất
nhiều dẫn chứng trong Kinh Thánh cho biết biểu tượng
Giáo Hội là cô dâu và Đức Giêsu là chàng rể. V́ linh mục
liên kết với Đức Giêsu nên linh mục phải là chàng rể (tức
là nam nhân) trong khi Giáo Hội là cô dâu.
|
Chiếu
theo Thánh Kinh, trong bữa tiệc ly, Đức
Giêsu phong chức linh mục cho 12 môn đệ của
Người. Trong số đó không có một người nào là
phụ nữ, mặc dù lúc đó có mặt Đức Mẹ Maria là
đấng cao trọng hơn hết và cũng có nhiều nữ
môn đệ theo Người. Như vậy Chúa Giêsu đă
chọn 12 nam nhân để thành lập hàng giáo phẩm.
Việc thành lập Giáo Hội có giá trị vượt thời
gian, Đức Giêsu không bị lệ thuộc vào những
ràng buộc của định chế văn hoá xă hội nhất
thời nào. Chúng ta chỉ có thể tin rằng việc
Người làm hẳn phải có lư do. Cái lư do ấy
hội thánh không có tư cách để sửa đổi. Khi
Giuđa phản bội Chúa và tự tử, các Tông Đồ
cũng chọn một nam nhân khác để thay thế. Rồi
chính mỗi vị Tông Đồ cũng chọn người kế vị
tiếp nối sứ mạng của ḿnh bằng một nam nhân.
Giáo Hội bị ràng buộc với sự lựa chọn của
Chúa và các Tông Đồ, v́ đó là dấu chỉ của ân
sủng. Tuân theo truyền thống ấy Giáo Hội quy
định chỉ người nam đă nhận phép rửa tội mới
được nhận lănh bí tích Truyền Chức linh mục.
Giáo Hội không thể phong chức cho người nữ (GLCG
1577).
Không thể coi vấn
đề chọn linh mục là người nam là trọng nam khinh nữ.
Chức linh mục không phải là một quyền lợi nên đ̣i phải
được chia đồng đều cho nam và nữ. Đó là một vị thế phục
vụ không phải là một quyền lợi. Có một mâu thuẫn rất lớn
khi nhóm nữ linh mục cho rằng Đức Giêsu truyền chức linh
mục cho 12 nam nhân chỉ là phản ảnh sắc thái văn hóa
tương đối vào thời ấy. Trong khi đó họ lại cho những lời
khuyên của Thánh Phaolô cấm đàn bà nói và giảng kinh (xem
trích dẫn trên) là tuyệt đối khinh thị nữ giới. Ngược
lại bí tích truyền chức thánh do Đức Giêsu lập ra có giá
trị tuyệt đối, c̣n lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô chỉ có
giá trị tương đối phản ảnh quan niệm xă hội cục bộ nhất
thời. Chính Giáo Hội cũng không chấp nhận quan niệm kỳ
thị này. Sử dụng những bằng cớ ấy để kết án Giáo Hội
hiện tại kỳ thị là ấu trĩ.
Danh Xưng
Cha Của Linh Mục
Theo truyền thống,
"cha" là người đứng đầu trong gia đ́nh. Tiếng
"cha" nêu
ra trách vụ hướng dẫn con cái trong liên hệ gia đ́nh.
"Cha" không phải là một chức vị xă hội.
Nhóm nữ linh mục
vin vào câu nói của Đức Giêsu cấm gọi một phàm nhân nào
khác là cha, v́ Cha là danh xưng dành riêng để gọi Thiên
Chúa. Trên thực tế họ đă cắt câu nói của Người ra khỏi
mạch ư của Phúc Âm. Vào thời gian đó, nhóm Kư Lục,
Pharisêu, và Sađốc đều được gọi là cha. Họ thường lạm
dụng danh xưng cha để tự phong chức vụ danh tước cho
ḿnh. Đức Giêsu đă ngăn cấm lối nhận diện sai lầm ấy v́
Người thấy rơ họ không xứng đáng. Đức Giêsu dạy chúng ta
đừng lầm lẫn chức vị
"cha" trong vị thế xă hội với vị
thế Thiên Chúa (cũng gọi là Cha) là một người Cha trong
gia đ́nh. Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi bố ḿnh là
cha. Chính Đức Giêsu vẫn gọi thánh Giuse là cha. Người
cũng nói Abraham là cha của dân Israel.
Thánh Phaolô giải
thích rơ danh xưng "cha" trong Kitô giáo là người hướng
dẫn tâm linh như một ông bố trong gia đ́nh. Cha là một
chức giáo vụ. Với nghĩa đó thánh nhân đă xưng ḿnh là
cha với dân Côrintô (1 Corino 4:15), là cha của nhóm tín
hữu Do thái (Heb 12:5-7, 11-13), là cha của Timôtê (1
Tim 1:18), và là cha của Ônêximô (Phi 9-10, 12-17).
Chúng ta đều biết Thánh Phaolô không thể dùng danh xưng
cha trong liên hệ chức vị xă hội. Danh xưng cha của linh
mục Công Giáo mang ư nghĩa ấy, tức là người chăn dắt (mục)
tâm linh (linh). Hiển nhiên trong gia đ́nh, chỉ người
con trai mới có thể là cha.
Khi nhập thế, Ngôi
Lời đă chọn là một người nam. Chúng ta không có quyền
đặt câu hỏi tại sao về sự lựa chọn này. Chúng ta chỉ có
thể ghi nhận. Thần học nêu rơ rằng linh mục là Nhân Thể
Hóa Đấng Kitô (In Persona Christi) hay Chúa
Kitô khác (another Christ, Giáo Hoàng Pius XI)
là h́nh ảnh sống của Chúa Cha (typos tou Patros,
Ignatius của Antioch), là người thay mặt Đấng Kitô (Thánh
Cyprian). Chúa Kitô kết hôn với Giáo Hội, mà linh mục là In Persona Christi, nên các tín hữu phải gọi
linh mục là cha. Chức linh mục đồng hóa với Đức Kitô Tư
Tế và hành xử như chính Đức Kitô (Piô XII, thông điệp
"Đấng Trung Gian Của Thiên Chúa"; GLCG 1547-1563). V́
vậy khi một người muốn trở nên hóa thân của Đức Giêsu
th́ cũng phải là một người nam, v́ Đức Giêsu là một
người nam.
Tóm lại, điều thật
sự mà người ta có thể thấy từ nhóm chủ trương linh mục
phụ nữ là họ muốn cải tổ hệ thống giáo quyền. Họ cho mô
thức Giáo Hội hiện tại là hệ thống toàn nam cần phải đổi
thành hệ thống dân chủ. Họ khẳng định không muốn qua
giáo phái Episcopal, nơi chấp nhận nữ linh mục. Họ muốn
là nữ linh mục Công Giáo. Họ không bỏ Giáo Hội nhưng
muốn cải tổ Giáo Hội. Cuộc tranh đấu của họ càng ngày
càng nhuộm màu chính trị của cánh nữ quyền. Nó có tính
cách quá đáng v́ đă lợi dụng mục vụ tôn giáo trong mục
tiêu tranh đấu phái tính. Câu tuyên xưng
"Nhân danh
Thiên Chúa Cha và Mẹ chúng ta" (In the name of God
our Father and Mother) đă làm nổi bật màu sắc chính
trị hơn là giáo lư tôn giáo. Tổng Giám Mục Donald W.
Wuert, Washington, Chủ Tịch Uy Ban Giáo Lư của Hội Đồng
Giám Mục Hoa kỳ tuyên bố, "Công Giáo, qua giáo huấn lâu
dài và không đổi, từ nguyên khởi chỉ truyền chức linh
mục cho người nam, điều này không thể thay đổi bất chấp
thời gian có thay đổi."
Đỗ Trân Duy
* * * * *
* * * * *
|